Hành trình tu sửa bản thân để hoàn thiện nhân cách, đạt thành chánh quả

Đối với thầy trò Đường Tăng, hành trình thỉnh kinh là quá trình tự hoàn thiện nhân cách của chính mình. Trải qua những kiếp nạn trên đường, mỗi nhân vật trong đoàn đều có những bước chuyển hóa tâm thức theo chiều hướng tích cực, tự biết trau dồi nhân cách, nhân sinh quan và tâm tánh.

Cuộc hành trình của phái đoàn Tây du thực ra là cuộc hành trình giải thoát ở mỗi con người muốn thoát khỏi mọi nỗi khổ đau của sinh tử mà Tam tạng kinh điển của nhà Phật đã vạch ra. Đó là ba tạng kinh mà Đường Tăng đã thỉnh về Đông Độ từ Tây Trúc. Cuộc hành trình ấy phải vượt qua 81 nạn tai, tức là phải vượt qua 81 cảnh giới tâm để hiển thị chân tâm bất diệt gọi là Phật tâm hay còn gọi là Tri kiến Phật.

Toàn bộ phái đoàn Tây du gồm 5 thầy trò Đường Tăng (bao gồm Tiểu Long Mã) đều thành Phật, an trú trong cảnh giới giải thoát. Con đường giải thoát là con đường chuyển hóa tâm thức, làm thăng hoa tâm thức nơi tự thân. Ta có thể thấy rõ điều nay thông qua các nhân vật mà Ngô Thừa Ân xây dựng:

+ Nhân vật Đường Tăng: là tiếng nói của hạnh nguyện giải thoát, của bi nguyện độ sinh và sau hết là tiếng nói của con tim trần thế. Đồng thời, Ngài còn là trưởng đoàn thỉnh kinh của phái đoàn Tây du. Nhân vật Đường Tăng là linh hồn của sự sống. Đây không phải là tiếng nói của trí tuệ, của khối óc nên thường thiếu khả năng phân biệt chánh tà, hư thực, tính cách khá bảo thủ, giáo điều, hay đưa ra những phán đoán sai lầm, thường bị mắc vào cạm bẫy của ma quái. Tiếng nói con tim ấy cần được soi sáng bởi tiếng nói trí tuệ, thiền định và giới đức. Chính vì thế, Ngô Thừa Ân đã khéo xây dựng 3 môn đồ phò tá Đường Tăng. Có thể nói, các nhân vật đệ tử của Đường Tăng là biểu tượng các phần tố tâm thức của một tâm hồn trong Đường Tăng. Tuy nhiên, càng về sau, ở nhân vật này đã có những sự chuyển biến tích cực do sự nỗ lực tu tập để thành tựu Phật quả với danh hiệu Chiên Đàn Công Đức Phật.

+ Nhân vật Tôn Ngộ Không: biểu trưng cho trí tuệ. Trí tuệ ấy biết tự tìm đường học đạo với ngài Tu Bồ Đề để đạt được trường sinh bất tử. Nhân vật là người quyết định sự thành bại trong cuộc hành trình thỉnh kinh, nên Tôn Ngộ Không lúc nào cũng người dẫn đầu phái đoàn. Điều này thể hiện rõ ở chỗ khi nào Đường Tăng không nghe lời Ngộ Không thì thì phái đoàn Tây du mắc nạn lớn, khi nào vắng bóng Ngộ Không thì ma quái hiện ra (cảnh quỷ Hoàng Bào hãm hại Đường Tăng sau khi Ngộ Không bị đuổi về Hoa Quả sơn hồi 20).

Tôn Hành Giả có sự thay đổi rõ nét qua công cuộc thỉnh kinh. Từ một nhân vật nóng tính, mang tính bộc phát và manh động ở giai đoạn đầu nhưng khi hành trình của phái đoàn càng đi xa, gần đến Lôi Âm Tự thì Ngộ Không đã giác ngộ sâu sắc, thấm nhuần tư tưởng từ bi thông qua việc đối nhân xử thế, cách giải quyết các kiếp nạn. Ngộ Không đã giảm tập khí sân si nóng nảy, hành động biết suy tính trước sau, tâm thiện chế ngự được tâm ác nên dần có khuynh hướng thu phục ma quái hơn là tiêu diệt. . Như vậy, thông qua hành trình thỉnh kinh, Ngộ Không đã được cải hóa, thiện tâm tăng trưởng, biết hướng đến việc tu tập bi tâm độ sanh, vận dụng trí tuệ viên thông mới đạt đến giải thoát tối hậu. Đặc biệt, nhân vật này luôn tiên phong trong việc diệt trừ yêu tinh, ma quái trên hành trình tu tập, đã luôn lập công đầu qua các ma nạn để cuối cùng thành tựu đạo quả ở đỉnh cao của chiến thắng ma nghiệp nên có danh hiệu là Đấu Chiến Thắng Phật.

AD

+ Nhân vật Trư Bát Giới: là người lười biếng, háo sắc, ham ăn, mê ngủ, dễ nhụt chí, thường xuyên ca cẩm, hễ gặp khó khăn thì muốn trốn chạy… Tuy nhiên, nhân vật này cũng có những biến chuyển nhất định. Ở hồi 90, khi các hoàng tử nước Châu Ngọc Hoa mở yến tiệc, lấy vàng bạc ra báo đáp ơn dạy dỗ của ba huynh đệ Tôn Ngộ Không, Bát Giới đã nói: “Vàng bạc chúng tôi không dám nhận, bộ quần áo của tôi bị con sư tử tinh đó kéo rách mất rồi, xin đổi y phục mới cho chúng tôi là đủ rồi, xin cám ơn…”. Có thể nói nhân vật này tượng trưng cho những tánh xấu trong lòng con người. Nhìn chung, Trư Bát Giới cũng lập được nhiều công trạng trên đường thỉnh kinh, dần dần loại bỏ những thói hư tật xấu để trở nên chững chạc hơn, có vai trò ngày càng rõ rệt trong đoàn thỉnh kinh. Chính vì thế, Trư Ngộ Năng trong suốt lộ trình thỉnh kinh phải đấu tranh với chính dục vọng, tính lười biếng và tham ăn của mình, nên khi đến đích giải thoát trở thành Tịnh Đàn Sứ Giả Bồ tát (làm chủ vật thực, hoa quả).

+ Nhân vật Sa Ngộ Tịnh: hiền lành, trầm lặng, chuyên chú biết kham nhẫn khó khăn. Ông vốn là Quyển Liêm đại tướng ở nhà trời, do vì chếch choáng rượu trời nên sơ ý “lỡ tay đánh vỡ chiếc chén bằng ngọc lưu ly” nên bị đày xuống trần gian. Khi đi theo Đường Tăng thì Ngộ Tịnh thiết lập chánh niệm tỉnh giác. Trải qua hành trình dài cùng với Đường Tăng, Sa Ngộ Tịnh đạt thành chánh quả và được phong làm Kim Thân La Hán.

+ Nhân vật Tiểu Long Mã: đây là nhân vật ẩn kín của phái đoàn Tây du, nếu thiếu sự chú tâm, chúng ta sẽ không phát hiện ra. Tiểu Long Mã trong suốt cuộc chiến đấu với ma quân luôn luôn là phương tiện đưa đường cho Đường Tăng, luôn luôn phò trì hạnh nguyện độ sanh, nên khi thành chánh quả có tên là Thiên Long Bát Bộ tiếp tục cứu độ, giải khổ cho chúng sanh.

Bên cạnh các nhân vật hoàn thiện nhân cách đạo đức thì việc khiến Tôn Ngộ Không, Sa Ngộ Năng, Sa Ngộ Tịnh, Tiểu Long Mã quy phục Đường Tăng, tu sửa bản thân đó chính là việc tu thành chánh quả. Đây chính là mục đích quan trong của cuộc hành trình thỉnh kinh của phái đoàn Tây du. Khi đến Linh Sơn, Đường Tăng đã cảm ơn các đồ đệ, Ngộ Không nói rằng: “Không ai phải cảm ơn ai cả, thầy trò chúng ta giúp đỡ nhau thôi. Con đây nhờ ơn giải thoát của sư phụ, theo chân Người tu luyện, may thành chánh quả, sư phụ cũng nhờ có con hộ tống, thỉnh được Phật pháp, thoát kiếp phàm tục” (hồi 98). Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng nhờ có các đệ tử, đặc biệt là Tôn Ngộ Không đã mở đường giúp Đường Tăng vượt qua bao nhiêu gian nan hiểm trở, vượt qua nhiều kiếp nạn ma quỷ mới đến được Tây Trúc thỉnh kỉnh. Mặt khác, Đường Tăng là người khai ngộ tâm trí cho các đệ tử thoát khỏi mọi sự giam cầm, trói buộc của thân tâm để hướng đến sự giải thoát viên mãn. Sự có mặt của thầy trò Đường Tăng đã hỗ trợ lẫn nhau dọc suốt hành trình thỉnh kinh. Đôi lúc, giữa thầy trò có quan hệ bất đồng. Chẳng hạn, Đường Tăng một lòng hướng thiện, quan niệm dùng đức cảm hóa yêu ma, thể hiện tâm từ bi, có xu hướng cứu vớt hơn là loại trừ; Đường Tăng muốn lấy “cái thiện” để trừ ác. Ngược lại, Tôn Ngộ Không là người nóng tánh, thấy yêu ma là đánh, giết hại; Tôn Ngộ Không lại muốn lấy cái “không thiện để trừ ác”.

Tuy nhiên, càng về sau mối xung đột của Tôn Ngộ Không và Đường Tăng càng được hóa giải tốt đẹp, thầy và trò càng ngày càng hiểu rõ nhau hơn. Quá trình thỉnh kinh cũng chính là quá trình tu tập để chuyển hóa tâm thức từ phàm phu trở nên thánh thiện, từ mê mờ trở nên giác ngộ. Do vậy, thầy trò đã đạt đến sự hài hòa, thống nhất, đạt đến tâm và tuệ giải thoát khi họ thỉnh được chân kinh. Sau mỗi lần gặp nạn tai do không tin lời Ngộ Không mà mắc bẫy yêu quái, Đường Tăng lần lần rút được kinh nghiệm và tín nhiệm Ngộ Không hơn. Điều này thể hiện qua chi tiết, khi Địa Dũng phu nhân trong Hắc Tùng Lâm biến thành mỹ nữ bị trói trong rừng định bắt sống, ăn thịt Đường Tăng. Đường Tăng muốn cứu giúp nhưng bị Ngộ Không phản đối, Đường Tăng đã nói với Bát Giới: “Thôi đi, thôi đi. Sư huynh con nhìn không lầm đâu. Sư huynh đã nói vậy, thì không cần quan tâm đến nữ thí chủ đó nữa, chúng ta lên đường thôi”.

Hành trình tìm kiếm chân lý, phổ độ chúng sanh

Qua tác phẩm Tây Du Ký, Ngô Thừa Ân đã cho ta thấy rõ mục đích cuộc hành trình sang Tây Trúc của thầy trò Đường Tăng là đi tìm chân lý để phổ độ chúng sanh.

Mỗi nhân vật trong đoàn Tây du tuy xuất thân ở mỗi hoàn cảnh khác nhau, nhưng họ đều có chung lý tưởng là đi tìm chân lý giải thoát khỏi những nỗi khổ niềm đau cho chính mình. Không những thế, thầy trò Đường Tăng còn đem ước nguyện ấy cùng với tâm yêu thương của mình mà cùng chia sẻ, giải quyết các vấn nạn xảy ra trong đời sống hiện thực của con người: trên đường thỉnh kinh, Tôn Ngộ Không đã trừ rất nhiều tà ma, quỉ mị để cứu đời. Ở các hồi 44 – 46: tại nước Xa Trì, Ngộ Không đấu phép hàng ba tên yêu quái lốt đạo sĩ; tại hồi 62, 63 phái đoàn Tây Du giúp vua Tế Trại đi ra khỏi quyết định sai lầm, cứu chư Tăng chùa Kim Quang khỏi hàm oan, trừ tà lấy lại quốc bảo cho nước Tế Trại. Ngộ Không và Ngộ Năng đã không quản lao nhọc hành Phật sự cứu độ, giúp dân ra khỏi khổ nạn. Hay trừ nạn hạn hán ở quận Phụng Tiên ở hồi 87.

Cuộc hành trình thỉnh kinh từ Đông Độ sang Tây Trúc với ngòi bút tài hoa của mình, Ngô Thừa Ân, đã xây dựng thành công 81 nạn với nhiều yêu tinh, ma mị mê hoặc ngăn cản cuộc hành trình của thầy trò Đường Tăng. Họ không chỉ phải chiến thắng những yêu ma, những thế lực hung tàn trên đường thỉnh kinh, đi tìm chân lý mà năm thầy trò còn phải chiến thắng cả những yêu ma ẩn sâu bên trong con người họ – đó là những thói hư tật xấu, là tham sân si, là trạng thái mê mờ của tâm thức rất dễ chạy theo những pháp trần: Như ở hồi thứ 50, khi qua vùng núi Kim Đầu, Ngộ Không biết là có yêu tà ngăn cản Đường Tăng đến một toà nhà lớn nghi do yêu quái biến hoá ra và đã vạch một vòng an toàn cho sư phụ, Ngộ Năng, Ngộ Tịnh. Ngộ Không phải đi xa xin cơm cho Đường Tăng. Lúc này đây, năm thầy trò phải vượt qua những tật xấu trong bản thân họ, nhất là Ngộ Năng. Ngộ Năng lại khởi lên niệm đố kị Ngộ Không, giục Đường Tăng đến thẳng ngôi nhà quỷ mà khất thực. Độc Giác Tỷ đại vương đã bắt giam Đường Tăng, Ngộ Năng, Ngộ Tịnh. Hồi này, tác giả cho ta thấy vì lòng tật đố mà lý trí bị mê mờ thầy trò Đường Tăng không còn tin vào bản lĩnh của Ngộ Không nữa. Chính khuyết điểm này của tâm thức đã mở ra ma nạn ở động Kim Đầu.

Có thể nói, đối với Ngộ Không, việc đối phó với các thế lực ma quái bên ngoài là không có gì đáng e ngại, thế nhưng chính sự bất hoà, không tin tưởng lẫn nhau, sự mê mờ của tâm thức đã dẫn đến những tai nạn bất ngờ gây nên nhiều khó khăn, ngăn cản bước đi đến đích của cuộc hành trình tìm kiếm chân lý, thỉnh chân kinh mà phổ độ chúng sanh. Nhưng càng gần đến chùa Lôi Âm bên Thiên Trúc, các nhân vật trong phái đoàn Tây Du cũng dần dần khắc phục được những khuyết điểm của mình như ở hồi 62, 63 dục vọng khi được chuyển đổi thì thành dục vọng giải thoát, sức mạnh tinh cần để tự độ và độ tha, Trư Ngộ Năng đã trở nên năng nổ làm việc thiện mà không cầu danh, cầu lợi.

Trên con đường đi tìm chân lý, thầy trò Đường Tăng vừa dùng bản lĩnh, tài năng, tâm lực của mình để cứu giúp hoạn nạn cho mọi người, vừa phải chiến đấu với ma quân bên ngoài cùng với những tạp khí xấu ác của con người. Dần dần họ tự hoàn thiện mình hơn và cuối cùng đã tìm được chân lý với cái vô ngã của các pháp. Khi đến được Thiên Trúc, được Phật Tổ Như Lai truyền cho 35 bộ kinh, công đức viên mãn, thầy trò đắc thành chánh quả rồi cùng nhau quay về tiếp tục lý tưởng phổ độ chúng sinh sau chuyến du hành đi tìm chân lý.

Hành trình thỉnh kinh của thầy trò Đường Tăng nhìn từ trang sách đến hiện thực xã hội Trung Quốc

Tây du ký là một trong những tác phẩm kinh điển của nền văn học Trung Quốc. Truyện lấy bối cảnh của xã hội Trung Quốc đời Đường để tái hiện hiện thực xã hội đương thời thông qua chuyến đi sang đất Phật để thỉnh kinh của thầy trò Đường Huyền Trang. Đây là một thể loại tiểu thuyết chương hồi,viết về thần ma nhưng không hẳn vì thế mà mất đi giá trị đích thực của lịch sử.

Vốn là người thông minh, có nhiều tài năng nhưng không đắc chí trong cuộc thi khoa cử, có thể nói là thi trượt liền. Cho nên cảnh ngộ của ông không tốt, cuộc sống hết sức nghèo túng. Sự từng trải như vậy khiến ông nhận thức sâu sắc sự hủ bại của quan trường phong kiến và nhân tình thế thái trong xã hội, trong lòng ông đầy tình cảm bất bình và chống đối. Ngô Thừa Ân đã bày tỏ quan điểm của mình trong tác phẩm Tây du ký. Ông cho rằng cái xấu xa trong hiện thực xã hội có nguồn gốc là kẻ thống trị dùng người không thích đáng, khiến người xấu cầm quyền. Ông rất mong thay đổi hiện thực đen tối, nhưng tuy có tài năng và hoài bão mà không có cơ hội thực hiện, cho nên chỉ có thể thở dài. Chính vì thế, Ngô Thừa Ân đã dốc hết sự phẫn uất và nguyện vọng tốt đẹp của mình vào tiểu thuyết Tây du ký.

ad

Thông qua truyện Tây du, ngoài ngòi bút tài hoa, giàu sức tưởng tượng, hài hước… Ngô Thừa Ân đã khéo dựng nên chuyện yêu ma quấy nhiễu dân lành, đa phần chúng có lai lịch thân thế từ dòng dõi cao quý ở cõi trời, là con cháu, đệ tử, vật cưỡi… của thần tiên nên có nhiều phép thuật, tác oai tác quái ở trần gian mà không một ai diệt trừ được. Yêu quái ở đây chính là biểu tượng cho những thế lực độc ác, tàn bạo, bất công trong đời sống hiện thực, là nguyên nhân cốt yếu gây ra những nỗi cực khổ, ai oán cho dân chúng. Trong trường hợp này, hành động tiêu diệt yêu quái của Tôn Ngộ Không mang tính chất “tế thiên hành đạo”, nhằm lập lại trật tự và khôi phục sự yên bình cho cuộc sống. Tôn Ngộ Không coi mọi điều gian ác như thù địch, trước “gậy Như Ý bịt vàng” mọi yêu ma quỷ quái hung tàn đều mất đi uy phong trước kia, hoặc bị chết thẳng cẳng, hoặc bó tay chịu trói… Các thứ như trên đều phản ánh nguyện vọng mạnh mẽ quét sạch mọi hiện tượng xấu xa và thế lực ác bá trong xã hội của Ngô Thừa Ân. Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng,“Tây du ký đã phản ánh lý tưởng tự do bình đẳng, khắc phục mọi khó khăn để chiến thắng thiên tai địch họa”, thể hiện ước vọng của nhân dân thời bấy giờ.

Bên cạnh đó, Ngô Thừa Ân còn “gửi gắm một tâm sự, thể hiện một lý tưởng, bênh vực một quan niệm nhân sinh”. Trong Tây du ký, có chỗ tác giả đả kích cuộc sống hiện thực nơi trần thế thông qua việc thầy trò Đường Tăng thỉnh kinh đi qua 9 nước, trong đó nhiều nước vua vô đạo, quan bất tài vô dụng, có nước vua mê mờ tôn 3 con yêu quái hóa thân thành đạo sĩ làm quốc sư, có vua tin vào thuốc trường sinh làm từ 1111 bộ tim trẻ con.

Tác phẩm Tây du ký đã lấy nguồn cảm hứng từ một câu chuyện có thật về chuyến đi thỉnh kinh của Đường Huyền Trang. Trong chuyện xoáy sâu vào chuyến đi huyền thoại của vị Pháp sư trẻ tuổi đời Đường này, để lại cho hậu thế nhiều bài học và giá trị để tìm tòi và suy ngẫm. Chẳng hạn, truyện Tây Du mượn chuyện nhà sư đi tìm lý tưởng giải thoát ở một xứ sở khác (Ấn Độ), phải chăng tác giả đã bất mãn với cuộc sống hiện thực, muốn thoát ly vượt khỏi hiện thực xã hội đen tối thời Minh. Việc Tôn Ngộ Không sau khi học được 72 phép thuật tinh thông tự xưng là Tề Thiên Đại Thánh đã lên thiên đình đại náo bắt Ngọc Hoàng nhường ngôi, xuống địa phủ quấy rối bắt Diêm Vương xóa tên họ loài khỉ để trường sinh, vào long cung bắt Long Vương nộp gậy vàng… là ý nói tác giả muốn đã kích, châm biếm, lật nhào từ Ngọc Hoàng, Diêm Vương, Long Vương. Tề Thiên Đại Thánh đã “náo loạn thiên cung, địa phu, long cung, trên trời dưới nước gì cũng đều lật nhào, duy chỉ có cung điện của hoàng đế trần gian là chưa hề bị đụng chạm”. Điều này có thể thấy được tác giả đã thể hiện sự bất mãn và phản kháng của mình, chỉ ra tình trạng thối nát, bất công ngang trái và cuộc sống hưởng lạc của chế độ phong kiến triều đại nhà Minh.

Ngoài ra, “Tây du ký còn là tiếng vang vọng của những phong trào nổi dậy của nông dân đời Minh”. Tác giả đã dành 7 hồi đầu để ca ngợi hành vi phản động, nổi loạn của Tôn Ngộ Không, đưa mọi người đến kết luận: chỉ có phản kháng, đấu tranh mới giải quyết được tình trạng bất công, ngang trái. Tôn Ngộ Không đã nên khẩu hiệu “thay nhau làm vua, sang năm đến lượt ta”. Khẩu khí này rõ ràng có ảnh hưởng của những cuộc khởi nghĩa cuối đời Minh. Như vậy, chúng ta có thể thấy nội dung tư tưởng phản kháng hiện thực cuộc sống được thể hiện mạnh mẽ trong tác phẩm Tây Du Ký. Nó không đơn thuần là tiểu thuyết ảo tưởng mang tính chất tưởng tượng phong phú, hài hước, mua vui, với những câu chuyện thần kỳ mang nhiều ý nghĩa triết lý… mà đằng sau lớp nghĩa đó tác giả còn gửi gắm những ưu tư và hoài bão của mình về con người và xã hội Trung Quốc đương thời.

Mở rộng vấn đề về Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân.

Tây Du Ký vốn bắt nguồn từ một câu chuyện có thật: một nhà sư trẻ đời Đường Thái Tông là Trần Huyền Trang đã quyết chí một mình sang Ấn Độ (về phía tây Trung Quốc) tìm thầy học đạo.

Vài điểm khác biệt giữa Ngài Huyền Trang trong tác phẩm và Ngài Huyền Trang trong lịch sử:

Với Ngô Thừa Ân, Ngài Huyền Trang vâng lệnh vua nước Đại Đường sang Tây phương lấy kinh Phật. Nhưng trong lịch sử, vì bởi tinh thông giáo lý trong kinh Phật nên ngài Huyền Trang ngày càng phát hiện ra tình trạng rối ren của Phật học Trung Quốc vào thời ấy, có quá nhiều việc chưa được giải quyết đến nơi đến chốn nên ngài quyết chí tìm đến Ấn Độ để trực tiếp học hỏi. Ngài học chữ Phạn và ngôn ngữ Ấn Độ, bái phỏng không ít danh sư, tham quan nhiều di tích, mở rộng tri thức và trải qua 17 năm học tập, nghiên cứu, Ngài mới trở về quê hương mình bắt đầu lãnh đạo công cuộc dịch thuật kinh Phật ra chữ Hán, chứ không giống như nhân vật Đường Tăng trong Tây Du Ký sau khi thỉnh được chân kinh mang về Đông thổ Đại Đường thì cả bốn thầy trò đều thành thành chánh quả, bay về Phương tây hưởng phước.

Dưới ngòi bút của tác giả, Đường Tăng là một hoà thượng thành tâm sùng đạo, bền gan quyết chí theo đòi việc lớn, nhưng đồng thời cũng là một tri thức phong kiến chịu sự ràng buộc của mọi thứ lễ nghi quy tắc, lại ít được tôi luyện trong thực tế cuộc sống do đó thường lúng túng và bó tay trước khó khăn. Nhưng với Ngài Huyền Trang lịch sử thì khác, Ngài đã một mình vượt qua bao nguy hiểm, qua hơn một trăm nước với hơn năm mươi ngàn dặm lộ trình không chỉ đưa về trên 20 thớt ngựa chuyên chở 520 giáp gồm 657 bộ kinh Phật cùng với tượng Phật và xá lợi Phật; mà Ngài còn dùng ngòi bút của một sử gia chuyên nghiệp ghi chép cẩn thận về 138 nước mà Pháp Sư từng đặt chân đến. Với nội dung tổng hợp cả tính chất lịch sử, địa lý và đầy đủ các giá trị văn hoá của từng nước làm nên tập bút ký “Đại Đường Tây Vực ký”. Và cũng chính nhờ sự miêu tả của Đại Đường Tây Vực ký mà tiểu thuyết gia Ngô Thừa Ân đã soạn thành bộ tiểu thuyết nổi tiếng Tây Du Ký, rồi đạo diễn Dương Khiết chuyển thể thành kịch bản phim cùng tên, đưa lên màn ảnh, minh hoạ sống động hành trình thỉnh kinh của Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang.